image banner
Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra

Đối với lĩnh vực thanh tra, rủi ro có ảnh hưởng và tác động chủ yếu đến chất lượng cuộc thanh tra được xác định ở 03 giai đoạn: Chuẩn bị thanh tra, tiến hành thanh tra, kết thúc thanh tra. Nhóm tiêu chí phân loại dựa trên chủ thể rủi ro, gồm: Người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra và tổ chức, cá nhân có liên quan.

1. Nhận diện rủi ro trong hoạt động thanh tra

* Giai đoạn chuẩn bị thanh tra:

Để cuộc thanh tra hiệu quả, công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai Đoàn thanh tra có ý nghĩa hết sức quan trọng. Có thể hiểu, một cách giản đơn nhất là muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra phải nghĩ đến việc tạo dựng môi trường chính trị, pháp lý, xã hội để giảm thiểu và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho hoạt động thanh tra một cách tối ưu nhất. Hiệu quả hoạt động thanh tra cao hay thấp sẽ do chất lượng các cuộc thanh tra quyết định.

Chất lượng cuộc thanh tra có hiệu quả phụ thuộc công tác chuẩn bị về nhân lực, điều kiện làm việc, công tác khảo sát thu thập, thông tin tài liệu để xác định nội dung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm không bị dàn trải, đảm bảo thời hạn thanh tra trực tiếp chỉ là bước kiểm chứng các tài liệu và áp dụng các quy định pháp luật có liên quan. Theo quy định tại Điều 58 Luật Thanh tra năm 2022, bước thu thập thông tin là cơ sở để xác định phạm vi, nội dung, đối tượng, thời kỳ thanh tra để trình thủ trưởng cơ quan thanh tra ban hành quyết định thanh tra; Điều 62 về xây dựng đề cương báo cáo cho đối tượng thanh tra để đánh giá tính chính xác của tài liệu thu thập, so sánh và đối chiếu các quy định pháp luật.

Do đó, nhận diện rủi ro trong hoạt động thanh tra ở bước chuẩn bị cuộc thanh tra, xác định thông qua một số yếu tố sau: (1) Rủi ro khi chuẩn bị các điều kiện về nhân sự, phương tiện kỹ thuật phục vụ Đoàn thanh tra; (2)  Rủi ro khi thu thập thông tin, tài liệu đối tượng thanh tra; (3) Rủi ro xây dựng kế hoạch thanh tra không trọng tâm, trọng điểm.

[if !vml]

Anh-tin-bai

Một buổi công bố quyết định thanh tra của Thanh tra thành phố Hải Phòng

* Giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp:

Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra được quy định chi tiết tại Điều 80, Điều 81, Điều 82 Luật Thanh tra năm 2022. Riêng cơ quan Thanh tra Chính phủ, trách nhiệm của Trưởng Đoàn thanh tra, Phó Trưởng Đoàn thanh tra và thành viên Đoàn thanh tra được quy định chi tiết tại Điều 13, Điểu 14 Quyết định số 465/QĐ-TTCP ngày 29/11/2022 về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động Đoàn thanh tra.

Quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng cũng cần có sự đổi mới trong bối cảnh khách thể quản lý đã, đang và sẽ thay đổi do chính môi trường tự nhiên và xã hội đòi hỏi. Xu hướng chung của đổi mới quản lý là hướng tới quản lý, quản trị rủi ro, nghĩa là khu vực nào, lĩnh vực quản lý nào, địa bàn nào có vấn đề, tiềm ẩn rủi ro cao thì chủ thể quản lý phải hướng đến với sự quan tâm cao hơn. Chính vì vậy, vấn đề xử lý tình huống trong hoạt động thanh tra, đòi hỏi Trưởng Đoàn thanh tra cần phải chú ý đến. Bởi vì, xử lý tình huống trong hoạt động thanh tra thường là những tình tiết, hành vi, sự kiện không dự liệu trước được và/hoặc vượt quá thẩm quyền của người tiến hành thanh tra, thậm chí của người ra quyết định thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra.

Xử lý tình huống trong thanh tra không chỉ đề cao tính trách nhiệm là đủ mà còn đòi hỏi cả sự dũng cảm vì lợi ích quốc gia, dân tộc, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chỉ đạo, điều hành của người có thẩm quyền. Do vậy, đòi hỏi Trưởng Đoàn thanh tra ngoài quy định về tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực, cần có tư duy bao quát, kinh nghiệm, bản lĩnh, phản biện, xử lý vấn đề, để có thể dự liệu, định hướng thành viên Đoàn thanh tra thực hiện quyền thanh tra theo quy định pháp luật và phải chú ý tính đến hậu quả không mong muốn phát sinh từ việc sử dụng quyền hạn có tính cưỡng chế mạnh trong quá trình thanh tra; đánh giá chứng cứ chính xác, khách quan. Thường là những chỗ có vấn đề mới cần thanh tra, việc chuyển hướng từ quản lý, thanh tra theo phương thức truyền thống sang quản lý hay thanh tra rủi ro thì sức ép là có thật. Vì vậy, khả năng phải ứng biến với sự đối phó, phản kháng từ đối tượng thanh tra và những người có liên quan luôn là nguy cơ hiện hữu.

Ngoài ra, yếu tố không mang tính tích cực chi phối, trong đó có yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật mà không phải lúc nào mối quan hệ giữa người tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra, với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cũng xuôi chèo, mát lái, thậm chí trong không ít trường hợp, các bên còn cố ý gây khó dễ cho nhau trong quá trình thanh tra. Những tình huống như vậy cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra. Vì vậy, nhận diện các yếu tố có rủi ro khi tiến hành thanh tra trực tiếp là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra tránh phải xử lý rủi ro và xung đột trong giai đoạn tiến hành thanh tra, như: (1) Rủi ro khi thông tin tài liệu, kết quả xác minh chưa đầy đủ và không chính xác; (2) Rủi ro khi thực hiện quyền thanh tra (niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định, xử phạt vi phạm hành chính…); (3) Rủi ro khi đối tượng thanh tra và các tổ chức, cá nhân có liên quan không phối hợp, cản trở, chống đối, giải thể, phá sản, ngừng hoạt động không có khả năng thực hiện kết luận, xử lý sau thanh tra; (4) Rủi ro khi phòng ngừa và xử lý xung đột lợi ích; (5) Rủi ro khi xuất hiện thiên tai, dịch bệnh; (6) Rủi ro khi thông tin, tài liệu và kết quả thanh tra bị lộ ra bên ngoài; (7) Rủi ro khi xảy ra tham nhũng, tiêu cực.

* Giai đoạn kết thúc thanh tra:

Theo quy định tại Điều 49 Luật Thanh tra năm 2022, giai đoạn kết thúc cuộc thanh tra, bao gồm 05 bước. Trong đó, công tác xây dựng báo cáo kết quả thanh tra là cơ sở dự thảo kết luận thanh tra, để xác định mức độ thiệt hại, mức độ sai phạm, xác định trách nhiệm, kiến nghị các biện pháp xử lý. Bởi vì, một cuộc thanh tra không phát hiện được sai phạm, khuyết điểm, thậm chí không chỉ ra được một sai lệch, khiếm khuyết nào, không đưa ra được đề xuất, kiến nghị nào nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, quyết định quản lý thì khó có thể đánh giá đó là cuộc thanh tra có chất lượng. Nhưng ngược lại, cuộc thanh tra phát hiện nhiều sai phạm, thu hồi nhiều tiền, tài sản, làm rõ trách nhiệm và xử lý nhiều hành vi sai phạm, khuyết điểm, bao gồm cả trách nhiệm hành chính, kỷ luật, hình sự cũng chưa hẳn là cuộc thanh tra có chất lượng cao, nếu như bỏ qua tính mục đích, tính tuân thủ, yếu tố kịp thời, hiệu quả trong hoạt động thanh tra.

Do đó, việc xử lý, kiến nghị xử lý sai phạm, hạn chế được phát hiện qua hoạt động thanh tra không chỉ dựa vào pháp luật, tiền lệ hay thông lệ, mà còn phải tính tới các yếu tố khác như chính trị, xã hội, lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc. Cho nên, đây là bước cần sự thận trọng, tính đến các yếu tố bên trong, bên ngoài đảm bảo kiến nghị có tính khả thi, công tác đôn đốc xử lý sau thanh tra dễ theo dõi, tổng hợp, báo cáo. Chính vì vậy, rủi ro trong thời điểm xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra, xác định thông qua các yếu tố: (1) Rủi ro khi xung đột quan điểm về chuyên môn, áp dụng pháp luật, giữa Đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra và các cơ quan liên quan. (2) Rủi ro khi xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra. (3) Rủi ro khi ban hành kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra bị khiếu nại, tố cáo, khởi kiện.

2. Đánh giá mức độ rủi ro

Theo Quyết định số 465/QĐ-TTCP ngày 29/11/2022 của Tổng Thanh tra Chính phủ về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động Đoàn thanh tra, việc đánh giá, xếp loại với Đoàn thanh tra đã quy định tiêu chí đánh giá, trình tự đánh giá, xếp loại để làm cơ sở khen thưởng, xử lý vi phạm và xem xét về công tác cán bộ. Tuy nhiên, để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, xử lý cần thực hiện thông qua các tiêu chí, mức độ sau:

Nhóm

Tiêu chí đánh giá

Mức độ/thang đo

 

Người ra quyết định thanh tra

 

(1). Chỉ đạo hoạt động Đoàn thanh tra

(2). Xử lý các vấn đề phát sinh

(3). Thực hiện quyền

1= Rủi ro rất thấp

2= Rủi ro thấp

3= Rủi ro trung bình

4= Rủi ro cao

5=  Rủi ro rất cao

 

 

 

Trưởng đoàn thanh tra

(1). Tổ chức điều hành các thành viên Đoàn thanh tra

(2). Năng lực phân tích, dự báo, tổng hợp về ngành, lĩnh vực được giao thanh tra

(3). Thực hiện quyền

(4). Xử lý tình huống/xung đột

(5). Tính trung thực, chính xác và khách quan

1= Rủi ro rất thấp

2= Rủi ro thấp

3= Rủi ro trung bình

4=Rủi ro cao

5= Rủi ro rất cao

 

 

Thành viên Đoàn thanh tra

 

(1). Tuân thủ quy định của Nhà nước về ngành, lĩnh vực được giao thanh tra; quy trình nghiệp vụ thanh tra

(2). Thưc hiện nhiệm vụ được giao đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ

(3). Tính trung thực, chính xác và khách quan

1= Rủi ro rất thấp

2=Rủi ro thấp

3=Rủi ro trung bình

4=Rủi ro cao

5= Rủi ro rất cao

Để đánh giá mức độ rủi ro có tính khoa học cần có bước tiếp thực hiện khảo sát thông qua bảng hỏi, xử lý dữ liệu để phân tích, so sánh, tổng hợp kết quả điều tra.

3. Giải pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro

- Về giải pháp chung:

Thứ nhất, chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động thanh tra. Tuân thủ trình tự, thủ tục các bước tiến hành cuộc thanh tra; bảo đảm đúng nội dung trong quyết định thanh tra, kế hoạch tiến hành thanh tra đã được phê duyệt; kiểm tra, xác minh và kết luận trên hồ sơ, tài liệu, chứng cứ thu thập.

Thứ hai, tăng cường giám sát hoạt động Đoàn thanh tra thông qua các công cụ, phương thức giám sát phù hợp. Hiện nay, quy trình giám sát hoạt động Đoàn thanh tra tại các văn bản dưới luật chưa có quy định chung các bước thực hiện. Dẫn đến công tác giám sát chưa khả thi, thiếu kiểm chứng về tính chính xác, khách quan, thực hiện đúng pháp luật của Đoàn thanh tra.

Thực tiễn, hiện nay, Thanh tra TP. Hải Phòng giám sát thông qua các báo cáo định kỳ tiến độ của Đoàn thanh tra, thông tin của đối tượng thanh tra và các tổ chức, cá nhân có liên quan, Nhật ký Đoàn thanh tra, lịch làm việc với các đối tượng thanh tra của Đoàn thanh tra.

Thứ ba, Xây dựng mô hình và quy trình quản trị rủi ro trong hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành để đánh giá mức độ, phòng ngừa rủi ro. Thực hiện chuyển đổi số để tích hợp các công cụ, phương thức tổ chức chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện nhằm thuận lợi công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra, xác định trách nhiệm.

Xây dựng tiêu chí đánh giá tiến độ và chất lượng cuộc thanh tra làm cơ sở  đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ thanh tra, căn cứ thực hiện công tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng, chi trả thu nhập tăng thêm, chi thưởng từ nguồn trích thưởng phát hiện qua thanh tra và đánh giá, xếp loại đối với Đoàn thanh tra.

Thứ tư, tuyên truyền nâng cao nhận thức về pháp luật thanh tra và các quy định pháp luật đảm bảo sự tuân thủ của đối tượng thanh tra. Từ đó, phân loại, xác định đối tượng, nhận diện, phòng ngừa rủi ro trên cơ sở cập nhật dữ liệu thông tin, theo dõi, đôn đốc xử lý sau thanh tra.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra có tâm với nghề, liêm chính, chuyên nghiệp, trọng danh dự, đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng chính trị, pháp luật và nghiệp vụ. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc, mục đích, vị trí, vai trò của công tác thanh tra. Bằng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ. Qua đó, tạo nên giá trị chuyên nghiệp; giá trị trách nhiệm; giá trị trung thực; giá trị minh bạch; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ; phòng ngừa tham nhũng, tránh xung đột lợi ích.

- Về giải pháp cụ thể:

(1) Đối với người ra quyết định thanh tra

Hoạt động thanh tra là việc thanh tra chấp hành các quy định pháp luật của đối tượng thanh tra. Do đó, công việc của người làm công tác thanh tra có thể chỉ được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực, nhưng cần đòi hỏi am hiểu pháp luật, nắm vững nội dung bao quát về các lĩnh vực được thanh tra. Theo quy định pháp luật về thanh tra, quy trình tiến hành thanh tra thông qua 03 giai đoạn: Chuẩn bị thanh tra, tiến hành thanh tra, kết thúc thanh tra. Để phòng ngừa rủi ro, người ra quyết định thanh tra xem xét về nội dung, lĩnh vực thanh tra cụ thể để có thể nhận diện rủi ro, đánh giá rủi ro, ứng phó rủi ro và giám sát, kiểm soát rủi ro. Thông qua các hình thức, công cụ sau:

- Khi phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra yêu cầu Đoàn thanh tra xây dựng chi tiết nội dung thanh tra, phạm vi thanh tra, danh sách đối tượng thanh tra và thời gian dự kiến làm việc với các tổ chức, cá nhân liên quan.

- Quá trình hoạt động của Đoàn thanh tra: Định kỳ hàng tuần nghe báo cáo tiến độ nội dung thanh tra, kết quả kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khó khăn, vướng mắc (nếu có) của Đoàn Thanh tra.

- Yêu cầu Tổ Giám sát báo cáo kết quả việc giám sát hoạt động thanh tra theo định kỳ.

- Nắm bắt qua các kênh thông tin có liên quan: Đối tượng thanh tra, các tổ chức, cá nhân có liên quan; lịch làm việc với đối tượng thanh tra cập nhật hệ thống.

(2) Đối với Trưởng Đoàn thanh tra

Trưởng Đoàn thanh tra không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra mà quá trình thanh tra cũng như kết quả của mỗi cuộc thanh tra, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra đều phụ thuộc vào năng lực tổ chức điều hành của Trưởng đoàn. Vì vậy, năng lực tổ chức điều hành của Trưởng đoàn thanh tra thể hiện ở việc làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho các thành viên trong đoàn; khả năng quy tụ; áp dụng quyền đúng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; mối quan hệ trong công tác; xử lý tình huống; bao quát nội dung, phạm vi, đối tượng thanh tra để nhận diện, xử lý vấn đề có hiệu quả.

- Bố trí phân công nhiệm vụ cho thành viên Đoàn thanh tra dựa trên năng lực, trình độ chuyên môn, sở trường; một nội dung thanh tra nên có từ 02 người tham gia để có sự phản biện, kiểm tra chéo; thực hiện kỹ năng làm việc nhóm của Đoàn thanh tra.

- Tăng cường công tác kiểm tra đối với các thành viên, xem xét diễn biến của sự việc trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhận định đánh giá, kết luận một vấn đề trên tinh thần khách quan, đúng đắn. Bằng phương pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, chứng cứ có liên quan, báo cáo theo đề cương của đối tượng thanh tra.

(3) Đối với thành viên Đoàn thanh tra

- Căn cứ nhiệm vụ phân công của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra cần xây dựng kế hoạch chi tiết, khoa học: Thời kỳ đầu (khoảng 1/3 thời hạn thanh tra), tập trung thu thập hồ sơ, tài liệu và nghiên cứu, xem xét hồ sơ, tài liệu của đối tượng thanh tra. Thời kỳ thứ hai (khoảng 2/3 thời hạn thanh tra), tiến hành thanh tra, xác minh tại đối tượng thanh tra; thiết lập biên bản ghi nhận số liệu, tài liệu. Thời kỳ cuối (khoảng 1/3 thời hạn thanh tra), củng cố chứng cứ và chuẩn bị kết thúc thanh tra trực tiếp.

- Kịp thời phát hiện, chủ động đề xuất các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra và tổ chức, cá nhân có liên quan với Trưởng đoàn thanh tra để báo cáo Người ra quyết định thanh tra.

Việc áp dụng quản lý phòng ngừa, rủi ro nhằm thuận lợi cho tổ chức, cá nhân chấp hành tốt pháp luật thanh tra; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ các đối tượng thanh tra không tuân thủ pháp luật thanh tra. Do đó, việc nhận diện, đánh giá tác động, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra góp phần nâng cao chất lượng cuộc thanh tra, bảo đảm sự tuân thủ các quy định pháp luật, tránh các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.

TS. Đoàn Văn Tạo

Trưởng phòng Giám sát, Kiểm tra và xử lý sau thanh tra

Thanh tra TP. Hải Phòng

Nguồn: thanhtravietnam.vn (25/6/2024)