Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong quản lý, sử dụng đất nhằm phòng, chống tham nhũng
Việc nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong quản lý, sử
dụng đất đai nhằm phòng, chống tham nhũng (PCTN) cần có giải pháp hoàn thiện cơ
chế, công cụ, phương tiện để kiểm soát quyền lực. Bài viết, tác giả đề xuất
giải pháp có tính định hướng góp phần làm cho quyền lực nhà nước được tổ chức
và vận hành ổn định, chính đáng, mạnh mẽ và hiệu quả hơn, hạn chế lạm dụng kiểm
soát trong vận hành quyền lực nhà nước.
Quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật về PCTN và kiểm soát
quyền lực
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (CNXH) năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN) từ trực thuộc Chính phủ chuyển sang trực
thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng Ban đã giúp việc kiểm
soát quyền lực, nhất là lộng quyền, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để trục lợi có
hiệu quả hơn.
Thể chế hóa và cụ thể hóa Cương lĩnh chính trị, vấn đề phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước đã có bước phát triển về chất,
được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Các Điều: 69, 94 và 102
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc phân công, phối hợp quyền lực
nhà nước, đồng thời quy định rõ các chủ thể thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp”; “Chính phủ là cơ
quan thực hiện quyền hành pháp”; “Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp”. Đặc biệt, nguyên tắc “kiểm soát” được bổ sung: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Điều 2). Quy
định này đã thể hiện sự phát triển về lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta.
Trong thể chế chính trị Việt Nam, Nhân dân ủy quyền cho các
thiết chế trong hệ thống chính trị để sử dụng quyền lực đó phục vụ Nhân dân,
phục vụ xã hội. Điều này được hiến định trong Hiến pháp của Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, và được Đảng, Nhà nước ban hành thành các quy định, văn bản cụ
thể nhằm lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Điều 2, Quy định số 205-QĐ/TW, ngày
23-9-2019, của Bộ Chính trị, “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
và chống chạy chức, chạy quyền”, đã nêu rõ quan điểm của Đảng. Tiếp đó, quy
định này được thay thế bằng Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính
trị về kiểm soát quyền lực và PCTN, tiêu cực (TC) trong công tác cán bộ.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một trong 10 nhiệm vụ
xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng là: “Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng
đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm
minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với
cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu “Tăng cường
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết
chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức,
viên chức”; “Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát
quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”. Điều này thể hiện quyết tâm chính trị
của Đảng nhằm xây dựng, phát triển một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả,
ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu
cực.
Xuất phát từ những yêu cầu lớn chủ trương của Đảng, Ban chấp
hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW đối với việc hoàn thiện thể
chế, chính sách về đất đai, trong đó trọng tâm là sửa đổi Luật Đất đai năm 2013
và các luật khác có liên quan, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ. Qua đó, thể chế
hoá chủ trương mới của Đảng về quản lý và sử dụng đất sẽ tạo ra hành lang pháp
lý đồng bộ, chặt chẽ và thống nhất, bảo đảm cho Nhà nước có đầy đủ công cụ pháp
lý để thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện chủ sở hữu, chủ thể sử dụng đất; hạn
chế được tiêu cực, lạm dụng, lạm quyền, lộng quyền.
Một số giải pháp kiểm soát quyền lực trong quản lý, sử dụng đất
nhằm phòng, chống tham nhũng
Bên cạnh nhóm giải pháp kiểm soát về cơ chế chính sách và nhóm
giải pháp kiểm soát từ bên ngoài, một số giải pháp cụ thể đáng chú ý gồm:
Thứ nhất, cần
có quy định về nguyên tắc kiểm soát quản lý; chủ thể, đối tượng trong quan hệ
kiểm soát quyền lực; nội dung, hình thức và trình tự thủ tục kiểm soát; các
biện pháp và hậu quả pháp lý của hoạt động kiểm soát quyền lực.
Thứ hai, kiểm
soát quyền lực về lĩnh vực đất đai thông qua việc xác định rõ trách nhiệm công
vụ của từng vị trí công tác, lãnh đạo, quản lý, điều hành trong thực hiện các
thủ tục hành chính về đất đai với phương châm “Đúng vai, thuộc bài” trên
cơ sở xây dựng những tiêu chí mang tính khoa học, phù hợp với yêu cầu thực tế
và chiến lược công tác cán bộ của Đảng trong việc đánh giá cán bộ về cả phẩm
chất, đạo đức lẫn năng lực, trách nhiệm, hiệu quả công tác; phải công khai,
minh bạch tất cả các hoạt động công vụ.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực thông qua việc xác định trách nhiệm của
người đứng đầu, thủ trưởng, cấp phó khi để xảy ra các hành vi tham nhũng, tiêu
cực, lạm quyền về các thủ tục hành chính đất đai.
Trong nền công vụ của nước ta hiện nay, việc xác định vị trí
việc làm, kết quả, sản phẩm của từng vị trí việc làm, nhất là trách nhiệm của
từng vị trí việc làm là chưa rõ, chưa mình bạch, việc phân cấp về thẩm quyền
quản lý, trách nhiệm cũng chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc
chung nên trên thực tế trong không ít trường hợp đã bỏ lọt trách nhiệm của
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu liên quan đến trách nhiệm trong thực
thi công vụ, nhưng cũng có những trường hợp xử lý trách nhiệm của người đứng
đầu, cấp phó của người đứng đầu chưa được "tâm phục, khẩu phục", chưa
mang lại sự đồng thuận cao trong dư luận xã hội, quan điểm xử lý giữa các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền, kể cả tổ chức đảng còn khác nhau...
Thứ tư, kiểm
soát quyền lực thông qua thiết chế công khai, minh bạch trong việc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai; công tác quy
hoạch, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi thu hồi đất; cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất
đai và giá đất.
Thứ năm,
kiểm soát quyền lực thông qua việc tự kiểm tra, giám sát bằng các hình thức thu
thập thông tin (hòm thư góp ý, đường dây nóng); giao cơ quan khác kiểm tra nội
bộ về tuân thủ các quy trình thực hiện thủ tục hành chính về đất đai.
Hoạt động kiểm tra, tự kiểm tra nhằm mục đích theo dõi, nhìn
nhận, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm công vụ, kịp
thời phát hiện, xử lý các tình huống phát sinh, các vi phạm, tồn tại, hạn chế;
tìm ra những nguyên nhân, động cơ, điều kiện dẫn đến những vi phạm, hạn chế của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, nhất là những người có chức vụ, quyền
hạn; chỉ ra được những yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý, điều hành, công tác cán bộ qua đó để đưa ra được những biện pháp khắc phục,
xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Thứ sáu, kiểm
soát quyền lực thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong
thời gian qua, quá trình kiểm tra, xác minh đơn thư của công dân phát hiện các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng đất đai,
như; sử dụng đất sai mục đích, lấn, chiếm đất, giao đất trái thẩm quyền; xử lý
vi phạm, chuyển mục đích sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Thứ bẩy, kiểm soát quyền lực đối với đội ngũ lãnh đạo
quản lý, công chức thực thi nhiệm về thực hiện các nhiệm vụ thủ tục hành chính
về đất đai. Bởi vì, cơ chế kiểm soát quyền lực trong quản lý và sử
dụng đất đai thể hiện rõ nét là các chế tài xử lý nghiêm minh những tổ chức,
những cá nhân lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích vì lợi ích
cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Để kiểm soát quyền lực thực sự có hiệu quả đòi
hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có quyền phải tu dưỡng, rèn
luyện phấn đấu để trở thành người thực sự có “tâm”, có “tầm”, vượt lên chính
mình, vượt lên ma lực cám dỗ của quyền lực, của đồng tiền.
Theo đó, việc
kiểm soát quyền lực trước tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cán bộ,
đảng viên có chức, có quyền. Họ phải tự thấy rõ đó là quyền lực của Nhân
dân, Nhân dân trao cho họ, ủy quyền cho họ thực hiện vì mục đích chung, vì lợi
ích của Nhân dân; không phải là quyền lực riêng của họ, nên họ phải thực hiện
đúng, đủ quyền lực, thực hiện đúng, hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được trao,
không được lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân.
Có thể thấy, hành vi lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng
quyền lực nhà nước của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong quá trình vận hành quyền lực nhà nước khi thực hiện thủ tục hành chính về
đất đai chính là biểu hiện mặt trái, mặt tiêu cực của quyền lực nhà nước. Khi
xảy ra lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực được giao sẽ ảnh hưởng đến
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thực thi đường lối, chính sách, pháp
luật, tạo cơ hội, điều kiện vi phạm pháp luật, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Đồng
thời, gây mất đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương, bộ, ngành, tổ
chức, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị
của đất nước.
Do đó, cần phải tăng cường và nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền
lực nhà nước trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai, bảo đảm pháp luật được
ban hành và thực thi có hiệu lực, hiệu quả, chất lượng nhất với các công cụ hữu
hiệu từ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và giám sát của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp; các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân. Đó là đòi
hỏi cấp bách của quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với quyết tâm cao nhất, sự nghiêm minh, nghiêm túc trong công
cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức đang được đẩy mạnh hiện nay;
sự quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, trước hết là
từ Trung ương và hành động mạnh mẽ, có hiệu quả cao của cả hệ thống chính trị
và toàn dân, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng, tình trạng tham nhũng đất đai
gây bức xúc xã hội hiện nay nhất định sẽ được ngăn chặn và đẩy lùi./.
TS. Đoàn Văn Tạo
Thanh
tra thành phố Hải Phòng
Nguồn:
thanhtravietnam.vn (14/6/2024)