Phát huy vai trò kiểm soát quyền lực của Nhân dân nhằm phòng, chống tham nhũng hiện nay
Nhìn từ góc độ quyền
lực, sự tha hóa quyền lực là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Do vậy, nhiều chế
tài nhà nước đã đặt ra để tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham
nhũng. Nhân dân là chủ thể đặc biệt của kiểm soát quyền lực, bởi quyền lực nhà
nước có nguồn gốc từ Nhân dân. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội XIII đã thẳng thắn
thừa nhận “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của
Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
nghiên cứu về kiểm soát quyền lực đến từ phía Nhân dân nhằm phòng, chống tham
nhũng. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp phát huy vai trò kiểm soát quyền lực
của Nhân dân nhằm phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
1. Nhân dân - chủ thể
quan trọng trong kiểm soát quyền lực
Từ xưa đến nay, tham
nhũng luôn là vấn đề nhức nhối của mọi quốc gia. Đa phần các quan điểm về chính
trị học đều khẳng định nguồn gốc của tham nhũng đến từ ham muốn vụ lợi cá nhân
của đối tượng tham nhũng. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận tham nhũng là các hành vi do
người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước
thực hiện thì có thể thấy rõ sự tha hóa trong sử dụng quyền lực nhà nước là yếu
tố quan trọng để thực hiện tham nhũng. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước là
một trong những giải pháp cần thiết để phòng, chống tham nhũng.
Kiểm soát quyền lực để
phòng, chống tham nhũng rất quan trọng, vậy, chủ thể nào được kiểm soát quyền
lực? Hiện nay, các chủ thể của kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm: Nhân dân
và những cơ quan dân cử; nội bộ các đơn vị; các tổ chức chính trị - xã hội;
Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng; các cơ quan thanh tra nhà nước. Trong đó, Nhân
dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
kiểm soát quyền lực. Quyền lực của các cơ quan công quyền rõ ràng có nguồn gốc
từ Nhân dân, tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhân dân còn thiếu cụ
thể để Nhân dân tham gia vào kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Hoạt động kiểm soát
quyền lực từ Nhân dân đối với các cơ quan nhà nước hiện nay được thực hiện bằng
ba phương thức là kiểm tra, giám sát và thanh tra.
Kiểm soát quyền lực bằng
phương thức kiểm tra của Nhân dân được hiểu là xem xét, đánh
giá về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước
trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Đây là quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân. Quyền kiểm tra của
Nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng
(1986). Văn kiện Đại hội VI nêu rõ: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự
quản lý nhà nước của mình”. Tuy nhiên, từ năm 1986 đến nay, mặc dù đã ban hành
nhiều Nghị định về thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng việc “dân kiểm tra” vẫn chưa
thực sự đi vào đời sống sinh hoạt chính trị của xã hội. Đại hội XII của Đảng
vẫn phải tiếp tục nhắc lại và nhấn mạnh nhiệm vụ: “Thể chế hóa và thực
hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đến đại hội
XIII của Đảng vẫn tiếp tục nhấn mạnh phương châm trên.
Kiểm soát quyền lực bằng
hoạt động giám sát của Nhân dân được hiểu là hoạt động xem
xét, theo dõi, đánh giá từ phía các cơ quan đại diện cho Nhân dân đối với các
chủ thể thực thi quyền lực nhà nước bên trong lực lượng Công an nhân dân. Đây
là quyền dân chủ gián tiếp của Nhân dân. Trong bộ máy nhà nước, giám sát thường
thể hiện chức năng của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ
máy nhà nước hoặc của Tòa án nhân dân; các tổ chức xã hội và công dân đối với
hoạt động quản lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà
nước. Nhìn chung, quyền giám sát của người dân được thực hiện qua các cơ quan
dân cử (Quốc hội, hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân
dân). Thêm vào đó, quy chế giám sát và phản biện xã hội được ban hành trong năm
2013, người dân thêm một kênh giám sát nữa là Mặt trận và các tổ chức chính trị
- xã hội. Đại hội XIII của Đảng, bên cạnh “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, Đảng đã đề ra thêm “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi
quyền làm chủ của Nhân dân và vai trò chủ thể của Nhân dân, thực hiện tốt, có
hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng”. Có thể thấy “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” đã thể hiện rõ
quyền làm chủ của Nhân dân. “Dân giám sát” nhấn mạnh đến quyền dân chủ của Nhân
dân.
Thanh tra là hoạt động giám sát đối với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực
hiện pháp luật của các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước. Thực tế quyền thanh
tra của người dân là một dạng của giám sát. Tuy nhiên, điểm khác biệt là người
dân có quyền giám sát các hoạt động khiếu nại, tố cáo và thực hiện kiểm soát
quyền lực thông qua ban thanh tra nhân dân. Điều này được quy định trong Luật
Thanh tra.
Với tư cách là chủ thể
trao quyền, việc thực hiện kiểm tra, giám sát và thanh tra của Nhân dân trong
kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan công quyền là một biện pháp hữu hiệu
nhằm phòng, chống tham nhũng. Khi quyền lực được kiểm soát, các hoạt động lạm
quyền, lạm dụng hoặc lợi dụng quyền lực để tham nhũng sẽ được hạn chế. Trong
nhiều bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc đến việc kiểm soát
quyền lực và yêu cầu “nhốt quyền lực vào trong lồng quy chế lập pháp”. Để chống
tham nhũng hiệu quả, việc kiểm soát quyền lực đến từ chủ thể Nhân dân chính là
“chiếc phanh” cơ chế và “cái lồng” kiểm soát quyền lực hiệu quả.
2. Kiểm soát quyền
lực nhằm phòng, chống tham nhũng thời gian vừa qua và một số vấn đề bất cập,
hạn chế
2.1. Việc kiểm soát
quyền lực được Đảng ta nhận thức từ rất sớm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII “Về một số vấn đề cấp bách và cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay” đã khẳng định kiểm soát quyền lực là một trong những vấn đề vừa
cấp bách, vừa cơ bản lâu dài. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng yêu cầu: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực
nhà nước, nhất là cơ quan kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà
nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền” và
“Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm
quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”. Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII)
cũng đã nhấn mạnh những giải pháp về kiểm soát quyền lực cũng như việc tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng. Kiên quyết sàng lọc, miễn
nhiệm, thay thế, cho từ chức, cách chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả,
không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm
thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý và người đứng đầu. Mới đây nhất, Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định:
“Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác
cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm
soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi
đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”. Do đó, “việc chống
chạy chức, chạy quyền được coi trọng, đã có tác động cảnh báo, răn đe và ngăn
chặn”.
Nhận thức được tầm quan
trọng của kiểm soát quyền lực, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo cụ thể hơn. Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04/8/2017, lần đầu tiên, Đảng ta ban
hành quy định cụ thể, chi tiết về tiêu chuẩn chức danh và tiêu chí đánh giá cán
bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đặc
biệt, quy định nêu rõ, cán bộ thuộc diện nói trên phải “tuyệt đối không tham
vọng quyền lực”. Thêm vào đó, ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định
số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy
chức, chạy quyền”. Quy định này được kỳ vọng sẽ ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng tha hóa, tham nhũng quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ; góp phần
thiết thực vào việc thực hiện thành công Chiến lược cán bộ của Đảng.
2.2. Với tinh thần: “Kết
hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm
minh, kịp thời, không có vùng cấm, không có ngoại lệ những hành vi tham nhũng”,
nhiệm kỳ Đại hội XII đã thể hiện sự kiên quyết, triệt để trong công tác xử lý
tham nhũng. Cụ thể, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209
cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện
Trung ương quản lý đang đương chức hoặc đã nghỉ hưu (trong đó có 3 ủy viên Bộ
Chính trị, 1 nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 7 ủy viên Trung ương Đảng 16 nguyên
ủy viên Trung ương Đảng; 1 bộ trưởng và 4 nguyên bộ trưởng; 22 thứ trưởng và
nguyên thứ trưởng; 12 bí thư và nguyên bí thư tỉnh, thành ủy; 3 phó bí thư và
nguyên phó bí thư tỉnh ủy; 15 chủ tịch và nguyên chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố; 26 sĩ quan cấp tướng trong Quân đội, Công an). Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo quyết liệt không có vùng cấm, không
có ngoại lệ; nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã
hội quan tâm đã được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, có tác dụng cảnh báo,
răn đe, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, khẳng định
quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Công tác
đấu tranh chống tham nhũng đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, rõ rệt, được
cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi
nhận.
Theo số liệu do Tổ chức
Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số nhận thức tham nhũng trong
khu vực công (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên. Đây là tín
hiệu tích cực thể hiện nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công tác phòng,
chống tham nhũng. Cụ thể, năm 2016, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180
toàn cầu. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy
mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, điển hình là việc nhanh chóng, kiên quyết
xử lý các vụ đại án tham nhũng lớn và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phòng,
chống tham nhũng. Tháng 11/2018, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tham
nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều. Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường kiểm
tra và tổ chức thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: Đề
cao tính liêm chính trong công vụ, thực hiện hiệu quả công tác kê khai và công
khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức... Vì vậy, chỉ số CPI của Việt Nam
được TI công bố ngày 28-01-2021 đạt 36/100 điểm, tăng 3 điểm so với năm 2016,
đứng thứ 104/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu. Điều này
khẳng định những kết quả tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam nhiệm kỳ Đại hội XII vừa qua.
2.3.
Nhìn chung, Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã được ban hành đều khẳng định
việc kiểm soát quyền lực từ phía Nhân dân là tất yếu. Tuy nhiên, cơ chế kiểm
soát quyền lực của Nhân dân vẫn còn một số mặt chưa được cụ thể hóa, một số bất
cập vẫn diễn ra và hạn chế quyền dân chủ chính đáng này của Nhân dân. Có thể kể
đến một số vấn đề sau:
Một là, quyền kiểm tra của Nhân dân vẫn
chưa được nhận thức một cách đúng đắn cũng như thể chế hóa cụ thể, trong đó quá
trình vận dụng vẫn lúng túng. Có ý kiến cho rằng, quyền kiểm tra thuộc về tổ
chức Đảng và chính quyền mà không phải là Nhân dân. Bên cạnh đó, Nhân dân khó
lòng kiểm tra các cơ quan công quyền khi không được cấp có thẩm quyền cho phép,
muốn kiểm tra phải có chuyên môn, trình độ và tất nhiên, không được kiểm tra
vào lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, bí mật công
tác. Trong các quy chế, quy định chưa cụ thể hóa ai là người được kiểm tra?
Kiểm tra ai? Kiểm tra cái gì? Kiểm tra ở đâu? Hoặc có đề ra cũng chỉ là hình
thức vì người dân khó có điều kiện và không có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
nhiều vấn đề, nội dung của các cơ quan công quyền.
Hai là, quyền giám sát của Nhân dân phần
lớn được thực hiện thông qua dân chủ gián tiếp. Một điều tích cực là việc giám
sát đến từ các cơ quan dân cử được thực hiện khá tốt trong những năm qua. Số
liệu báo cáo trình Đại hội XIII của Đảng chỉ ra: “Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã tổ chức 10 chương trình giám sát về các vấn đề, lĩnh vực có ý
nghĩa cấp bách với toàn xã hội; phản biện một số văn bản quan trọng của Đảng,
Quốc hội Chính phủ các bộ, ngành; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh tổ chức 721
cuộc giám sát, 784 hoạt động phản biện; cấp huyện tổ chức 6.404 cuộc giám sát,
4.403 hoạt động phản biện và cấp xã tổ chức 49.564 cuộc giám sát, 25.834 hoạt
động phản biện. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và
nhân dân đã có 32.064 ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Tuy
nhiên, Đại hội XIII cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, “việc đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có
mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp
nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội
chưa đều”.
Ba là, việc kiểm soát quyền lực thông qua
thanh tra nhân dân được ban hành là một thể chế tích cực đảm bảo dân chủ ở cấp
cơ sở trong kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra
nhân dân lại được ban hành cùng với Luật Thanh tra, gây chồng chéo, hiểu nhầm
trong công tác thanh tra. Hơn nữa, luật cũng quy định rõ thanh tra trong các
đơn vị, lực lượng như: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân do chính phủ quy
định. Đồng thời, thanh tra trong: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan khác của Nhà nước tổ chức và
chỉ đạo hoạt động thanh tra trong ngành, cơ quan mình. Có thể được hiểu là
thanh tra nhân dân không được tiến hành trong các cơ quan, đơn vị đó. Điều này
chỉ rõ một hạn chế về quyền thanh tra của Nhân dân đối với các cơ quan công
quyền này.
Bốn là, Hiến pháp của Nhà nước ta quy định rất
rõ quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật
hiện hành chưa quy định rõ ràng các phương thức giám sát của nNân dân. Thêm vào
đó, trình tự, thủ tục tiếp nhận, xử lý những ý kiến, kiến nghị của Nhân dân
chưa thật sự hiệu quả. Nhiều cơ quan công quyền xử lý các kiến nghị giám sát
của Nhân dân còn chậm chạp, gây bức xúc trong quần chúng. Văn kiện Đại hội lần
thứ XIII của Đảng thẳng thắn chỉ ra “một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân
và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân”.
Điều này thể hiện hoạt động kiểm soát quyền lực từ phía Nhân dân thời gian qua
chưa thực sự hiệu quả, “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện, vai trò
giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”.
3. Giải pháp phát huy
vai trò kiểm soát quyền lực của Nhân dân nhằm phòng, chống tham nhũng
Từ những vấn đề trên cho
thấy, kiểm soát quyền lực của Nhân dân chỉ thực hiện trên hai phương thức là
kiểm tra và giám sát. Đây là quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp của
Nhân dân. Để phát huy hơn nữa vai trò kiểm soát quyền lực của Nhân dân nhằm
phòng, chống tham nhũng, cần làm tốt một số giải pháp sau đây.
Một là, tăng cường và
phát huy dân chủ. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh quan điểm “thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Công cuộc đổi mới hơn 30
năm qua của chúng ta cũng khẳng định tính chân lý của quan điểm trên. Trong
quan điểm của Người, việc Nhân dân kiểm tra các cơ quan Chính phủ là điều tối
quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực. Để khắc phục tình trạng lộng quyền,
tham ô, Người yêu cầu Nhân dân có quyền kiểm tra các cơ quan nhà nước và cán
bộ, đảng viên đều chịu sự giám sát của Nhân dân. Trong đó, “cán bộ là gốc của
mọi công việc”, nên Nhân dân kiểm tra, giám sát cán bộ là việc trọng yếu nhất
để ngăn ngừa tham ô, tham nhũng.
Quán triệt quan điểm đó,
việc tăng cường và phát huy dân chủ trong toàn hệ thống chính trị là một trong
những giải pháp hàng đầu để kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Đây cũng là hiện thực hóa một trong những chủ trương lớn của Đại hội XIII “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Về lâu dài,
Quốc hội cần nghiên cứu ban hành Luật về kiểm tra, giám sát của Nhân dân trên
cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hiện hành về quyền kiểm tra và quyền
giám sát của Nhân dân đối với các cơ quan nhà nước trong đó quy định cụ thể về
nội dung, phạm vi, chủ thể, trình tự, thủ tục các hình thức kiểm tra, giám sát
của Nhân dân đối với các cơ quan công quyền cụ thể. Luật cần cụ thể hóa nhân
dân được giám sát ai? Giám sát nội dung gì? Cách thức giám sát và chủ thể giám
sát?.
Hai là, tăng cường
giám sát từ các cơ quan dân cử đối với các hoạt động thực thi pháp luật. Quốc hội, hội đồng nhân dân, đại biểu
Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân là các cơ quan dân cử đại diện cho quyền
dân chủ gián tiếp của nhân dân. Muốn hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật
thực sự đạt hiệu quả phòng, chống tham nhũng cần phải đổi mới các phương thức
giám sát. Chủ yếu cần tập trung vào: giám sát thông qua việc xem xét báo cáo;
giám sát thông qua kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; giám
sát thông qua việc trả lời chất vấn; giám sát trực tiếp tại địa phương. Cần
tiếp tục xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định pháp luật về hoạt động
giám sát của các cơ quan dân cử để xác định rõ ràng, cụ thể, phạm vi, thẩm
quyền, đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này đối với các cơ
quan công quyền. Để tăng tính hiệu quả trong hoạt động giám sát, nhất là tổ
chức thu thập thông tin, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng
lớn, phức tạp, các cơ quan dân cử cần tính đến việc thành lập các thiết chế độc
lập, thường xuyên hoặc lâm thời để thu thập thông tin và tổ chức đánh giá có
hiệu quả hoạt động thực thi quyền lực của các cơ quan nhà nước.
Ba là, cụ thể hóa
quyền kiểm tra của Nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc. Tiếp tục nghiên cứu trình để luật hóa
quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với việc thực thi pháp luật của các cơ
quan công quyền, xác định nội dung, phạm vi, trình tự, thủ tục hoạt động giám
sát của Nhân dân đối với cơ quan nhà nước với các quy định rõ ràng, cụ thể để
người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giám sát của mình, bảo đảm quyền
là chủ và làm chủ của Nhân dân.Tăng cường sự phối hợp giữa giám sát của Nhân
dân thông qua Mặt trận Tổ quốc, ban thanh tra nhân dân với hoạt động giám sát
của Quốc hội, hoạt động thanh tra của Chính phủ và hoạt động kiểm tra của Đảng;
phát huy tối đa sự tham gia của các tổ chức hội ở cơ sở như Hội Cựu chiến binh,
Người Cao tuổi, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Luật gia, Đoàn Thanh niên vào các
hoạt động giám sát nhằm đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực.
Bốn là, kiểm soát
quyền lực thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố
cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân là một kênh quan trọng của kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía
người dân đối với cán bộ, người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà
nước. Thông qua đó, các cơ quan, tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có được những thông tin khách quan để xem xét, đánh giá được năng lực
quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thực hiện nhiệm vụ cũng như trách nhiệm
công vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Năm là, tiếp tục
triển khai công khai, minh bạch về thông tin. Dân chủ phải đi liền với sự công khai, minh bạch về
thông tin. Cần có sự minh bạch về thông tin để Nhân dân trực tiếp kiểm tra,
giám sát. Tiếp cận đầy đủ thông tin, phát huy dân chủ trong tổ chức, hoạt động
của các cơ quan quyền lực là điều kiện rất cần thiết để người dân có điều kiện
để phát hiện, tố cáo những hành vi tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động của cán
bộ, đảng viên. Có thể khẳng định rằng, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và
tiếp cận thông tin là nền tảng đảm bảo cho hoạt động giám sát và phản biện xã
hội, tạo khả năng lên tiếng của Nhân dân, cho phép Nhân dân tham gia vào giám
sát, kiểm tra, phát hiện các biểu hiện tiêu cực. Mặt khác, quyền tự do báo chí,
tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin là cơ sở, nền tảng để thực hiện các quyền
khác của công dân như quyền khiếu nại, tố cáo, trưng cầu ý kiến. Điều này góp
phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhân dân đối với hoạt động thực
thi pháp luật của các cơ quan nhà nước./.
Đại
úy, Ths. Hà Tiến Linh
Khoa Lý luận chính trị và Khoa học xã hội nhân văn
Học viện An ninh nhân dân
Nguồn:
thanhtravietnam.vn (29/4/2022)