Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ người tố cáo hiện nay
Những quy định của pháp
luật tố cáo hiện nay về bảo vệ người tố cáo ít nhiều vẫn chưa thực sự cụ thể,
nên gây ra không ít khó khăn cho công tác bảo vệ người tố cáo trong thực tế.
Sau đây, tác giả sẽ đưa ra một số thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ
người tố cáo hiện nay.
Tại kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khóa XIV, Luật Tố cáo năm 2018 đã được thông qua với 9 Chương, 67
Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Luật đã dành hẳn 01 Chương
(Chương VI: từ Điều 47 đến Điều 58) để quy định về bảo vệ người tố cáo. Trong
đó, Điều 47 của Luật quy định phạm vi bảo vệ người tố cáo bao gồm: Bảo vệ bí
mật thông tin, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản,
danh dự, nhân phẩm của người tố cáo. Cũng theo quy định của Điều này, đối tượng
được bảo vệ không chỉ có người tố cáo mà còn cả những người thân thích của
người tố cáo như vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi...; Luật xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc
về người có thẩm quyền giải quyết tố cáo; đồng thời, cũng quy định rõ quyền và
nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ và các nội dung cơ bản về bảo vệ người tố
cáo. Triển khai chế định này của Luật, ngày 10/04/2019, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Tố cáo, có
hiệu lực thi hành ngày 28/05/2019, trong đó có dành một số điều khoản quy định
về trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo và cơ quan được yêu
cầu áp dụng biện pháp bảo vệ trong việc bảo vệ người tố cáo.
Tuy nhiên, những quy định của pháp luật
tố cáo hiện nay về bảo vệ người tố cáo ít nhiều vẫn chưa thực sự cụ thể, nên
gây ra không ít khó khăn cho công tác bảo vệ người tố cáo trong thực tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về bảo vệ bí mật thông tin người tố
cáo.
Bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo
là một nguyên tắc trong công tác giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, do mô hình cơ
quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo là những tập thể
với nhiều bộ phận khác nhau nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan
chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin
của người tố cáo thì quy định này khó có thể đảm bảo. Nhiều trường hợp, vì muốn
bao che, có thái độ nể nang nên thông tin về người tố cáo vẫn bị tiết lộ. Hiện
nay, theo quy định tại Điều 22, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP có quy định về chế
tài xử lý kỷ luật hình thức “cảnh cáo” đối với người có thẩm quyền giải quyết
tố cáo làm lộ thông tin cá nhân của người tố cáo: “Tiết lộ họ, tên, địa chỉ,
bút tích của người tố cáo và những thông tin khác làm lộ danh tính của người tố
cáo”. Với quy định này thì trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin chỉ thuộc về một
mình người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Vậy cán bộ tiếp nhận, xử lý thông
tin tố cáo ví dụ như: Cán bộ tiếp công dân ở các trụ sở tiếp dân, cán bộ tiếp
nhận của cơ quan, đơn vị khác trong trường hợp cơ quan đó không có thẩm quyền
giải quyết… nếu làm lộ danh tính người tố cáo sẽ bị xử lý như thế nào, thiết
nghĩ cần có thêm quy định làm rõ hơn cho những trường hợp này, để quy định về bảo
vệ bí mật thông tin của người tố cáo được hoàn thiện hơn.
Thứ hai, về căn cứ để yêu cầu bảo vệ người tố
cáo.
Điều 47 Luật Tố cáo 2018 quy định về
người được bảo vệ, phạm vị bảo vệ như sau: “1. Bảo vệ người tố cáo là việc bảo
vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính
mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (gọi chung là
người được bảo vệ).
2. Người tố cáo được bảo vệ bí mật thông
tin cá nhân, trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ.
3. Khi có căn cứ về việc vị trí công
tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người quy
định tại khoản 1 Điều này đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức
khắc hay họ bị trù dập, phân biệt đối xử do việc tố cáo, người giải quyết tố
cáo, cơ quan khác có thẩm quyền tự quyết định hoặc theo đề nghị của người tố
cáo quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết”.
Như vậy, theo quy định tại khoản 3, Điều
47 thì “khi có căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng,
sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, hoặc bị trù dập,
phân biệt, đối xử về việc làm, vị trí công tác… của người tố cáo và người thân
thích của người tố cáo thì tùy từng trường hợp họ có quyền yêu cầu người giải
quyết tố cáo, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp
bảo vệ. Tuy nhiên, việc hiểu như thế nào là “có căn cứ” theo quy định trên đang
còn là một vấn đề khó xác định vì quy định này mang tính định tính, không liệt
kê hoặc định lượng được ở mức độ nào, những biểu hiện nào, những hành vi nào
thì được coi là “có căn cứ”. Vì vậy, trên thực tế có thể dẫn đến một trong hai
tình huống: Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể gây nguy hại đến tính mạng,
sức khỏe, chưa thực sự có thể xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm…
của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu,
người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Trường hợp này không những gây tốn kém không cần thiết mà còn gây ra những ảnh
hưởng không tốt về mặt tâm lý, dư luận xã hội… Hai là, tình huống thực sự rất
cần phải bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan điểm chưa đủ “căn cứ” nên
người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn
đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định. Từ đó,
nhận thấy Thanh tra Chính phủ cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, tổng kết thực tiễn,
rà soát về vấn đề bảo vệ người tố cáo để làm rõ những tình huống, hành vi có
thể được coi là “căn cứ”, đồng thời cũng đưa một số tiêu chí cho việc được coi
là có “căn cứ”, sau đó hướng dẫn thống nhất áp dụng cho việc bảo vệ người tố
cáo trên phạm vi toàn quốc.
Thứ ba, về trách nhiệm phối hợp giữa người
giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố
cáo.
Theo quy định của Luật Tố cáo và Nghị
định số 31/2019/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước
hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan
phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, ủy ban nhân dân các
cấp, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan
khác. Có thể nói về mặt nguyên tắc, việc quy định như vậy đã cơ bản khắc phục
được tình trạng người tố cáo “phải tự mình tìm người, cơ quan, tổ chức bảo vệ
mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.
Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ
chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt
yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo,
nên cần quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan hơn trong từng trường hợp cụ
thể.
Thứ tư, vấn đề về cơ sở vật chất, nguồn nhân
lực, phương tiện, kinh phí bảo vệ người tố cáo hiện nay cũng là một trong những
bất cập, hạn chế trong bảo vệ người tố cáo.
Hiện nay, liên quan đến việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
các quyền nhân thân khác của người tố cáo thì vấn đề nguồn kinh phí, nhân lực,
cơ sở vật chất bảo vệ người tố cáo không được quy định rõ ràng, cụ thể nguồn
kinh phí bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo sẽ trích từ
nguồn ngân sách nào và cơ quan nào trực tiếp chi trả cũng gây khó khăn khi áp
dụng trong thực tiễn.
Như vậy, quy định về vấn đề bảo vệ người tố cáo hiện nay vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Nhìn chung, các quy định này chưa thực sự cụ thể,
rõ ràng, nặng về hình thức, xét thấy chúng ta cần phải có những quy định cụ thể
hơn, để đáp ứng được yêu cầu trong việc bảo vệ người tố cáo, tạo ra hành lang
pháp lý thuận lợi, khuyến khích công dân thực hiện các quyền Hiến định của mình
theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, đối với công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của
pháp luật về bảo vệ người tố cáo.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về tố cáo và bảo vệ người tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy,
còn tình trạng công dân vẫn chưa nắm được các quy định pháp luật tố cáo về
quyền của mình và cơ chế bảo vệ khi đứng ra tố cáo được quy định như thế nào.
Trong khi đó, nhiều vụ việc tố cáo giải quyết chưa triệt để, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của người dân, gây mất lòng tin của Nhân dân với cơ quan nhà nước nói
chung, cơ quan có thẩm quyền giải quyết nói riêng. Nhiều đối tượng bị tố cáo sử
dụng các thủ đoạn mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực khiến cho
người tố cáo hoang mang, lo sợ. Công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của cán
bộ, công chức đặc biệt là những người trực tiếp tham gia vào quá trình giải
quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo chưa được thường xuyên; sự tham gia của các
tổ chức xã hội, cơ quan báo chí, truyền thông, luật sư chưa thực sự hiệu quả.
Trong khi đó, các biện pháp bảo vệ cụ thể, cơ chế thực hiện các biện pháp bảo
vệ cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người tố cáo hầu như chưa được quy định một cách rõ ràng
trong hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc quy định còn sơ sài, một số nội dung quy
định chưa thực sự cụ thể, nặng về hình thức.
Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức có liên
quan chưa xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ về tiếp
nhận, xử lý và giải quyết tố cáo; chưa quán triệt sâu sắc ý nghĩa và nâng cao
nhận thức của mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tham gia vào quá trình tiếp
nhận, xử lý và giải quyết tố cáo về việc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố cáo nói chung còn chưa nhiều để
người dân có thể hiểu được và yên tâm sẵn sàng tham gia tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật. Vì vậy, chưa động viên, khuyến khích được đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi vi
phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói riêng.
Tóm lại, công tác giải quyết tố cáo nói
chung và vấn đề bảo vệ người tố cáo nói riêng đã được pháp luật thừa nhận, coi
trọng và được cụ thể hóa bằng việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp
luật và xác định việc bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập liên quan đến việc
triển khai thực hiện những quy định này trong thực tế, chính vì vậy cần tiếp
tục nâng cao, hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ người tố cáo hơn
nữa để đảm bảo đem lại hiệu quả áp dụng trên thực tế./.
Ths. Đào Thảo Ly
Giảng viên Khoa giải quyết KNTC và PCTN - Trường Cán bộ Thanh tra
Nguồn: thanhtravietnam.vn (30/3/2022)